1. Quan niệm của thế giới về an ninh con người
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khái niệm “an ninh” đã được sử dụng và nghiên cứu nhiều. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh các nghiên cứu về an ninh chủ yếu tập trung vào hai lĩnh vực: (1) An ninh quốc gia liên quan đến chiến tranh, hòa bình, quốc phòng, ngoại giao chính trị, liên minh quân sự và (2) An ninh công cộng tập trung vào vấn đề trật tự, an toàn xã hội, đồng thời chống lại tình trạng bạo lực, tội phạm, khủng bố. Kể từ khi Chiến trạnh lạnh kết thúc, dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ và những biến đổi nhanh chóng, phức tạp về chính trị và quan hệ quốc tế, nhiều vấn đề an ninh mới đã nổi lên trên phạm vi toàn cầu, đặt ra những thách thức không nhỏ đến con người. Từ đó đã ra đời khái niệm “an ninh con người”, có nghĩa là vấn đề an ninh gắn với con người.
Có nhiều quan niệm về an ninh con người, trong đó quan niệm về an ninh con người được ghi nhận trong “Báo cáo phát triển con người” năm 1994 của Liên hợp quốc vẫn là định nghĩa được trích dẫn nhiều nhất và được coi là chính thức nhất. Báo cáo nêu: “An ninh con người có thể nói gồm hai khía cạnh chính. Đầu tiên, nó có nghĩa là an toàn trước những mối đe dọa kinh niên như nạn đói, bệnh tật và sự đàn áp. Thứ hai, nó có nghĩa là bảo vệ chống lại sự phá vỡ đột ngột và gây tổn thương đối với mẫu hình cuộc sống hằng ngày - cho dù trong gia đình, trong công việc hay trong cuộc sống”[1]. Báo cáo này xác định an ninh con người bao gồm 7 thành phần: An ninh kinh tế; an ninh lương thực; an ninh y tế; an ninh môi trường; an ninh cá nhân; an ninh cộng đồng và an ninh chính trị. Cụ thể như sau:
- An ninh kinh tế: An ninh kinh tế được hiểu theo nghĩa hẹp là bảo đảm mức thu nhập cơ bản của con người. Ở tiêu chí này vấn đề việc làm đóng vai trò quan trọng. Mối đe dọa chính của an ninh kinh tế là tình trạng đói nghèo.
- An ninh lương thực: Bảo đảm con người đều được tiếp cận nguồn lương thực cơ bản để bảo đảm đủ các chất dinh dưỡng cho mọi người dân. Nguồn lương thực sẵn có để cung cấp là điều kiện cần, nhưng chưa phải là điều kiện đủ để bảo đảm an ninh lương thực cho con người, vì nếu không có khả năng tiếp cận nguồn lương thực do hệ thống phân phối không hiệu quả hay con người không có khả năng mua và sản xuất lương thực thì có khả năng chết đói.
- An ninh môi trường: Bảo vệ con người trước các mối đe dọa từ môi trường. Các mối đe dọa từ môi trường gồm 2 loại: Một là, do thiên tai như lũ lụt, động đất, sóng thần,.v.v..; hai là, do con người gây ra làm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm đất đai, ô nhiễm không khí, chặt phá rừng.v.v.. Hiện tượng biến đổi khí hậu và những thảm họa sinh thái bắt nguồn trực tiếp phần lớn từ con người, do con người.
- An ninh cá nhân: Bảo vệ các cá nhân trước hành vi bạo lực. Hình thức đe dọa bằng bạo lực bao gồm: Đe dọa từ nhà nước (tra tấn, lao động khổ sai,v.v..); đe dọa từ các quốc gia khác (chiến tranh, xung đột vũ trang,v.v..); đe dọa từ các nhóm người khác (căng thẳng và xung đột tôn giáo, sắc tộc,v.v..); đe dọa từ các cá nhân hoặc băng nhóm chống lại các cá nhân và băng nhóm khác (tội phạm, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, bạo lực đường phố,v.v..); đe dọa trực tiếp đối với phụ nữ và trẻ em (bạo lực gia đình, lạm dụng trẻ em); đe dọa đối với bản thân (tự tử, nghiện hút); v.v..
- An ninh cộng đồng: Bảo đảm an ninh cho mọi người trước cộng đồng. Con người cảm thấy an toàn hơn khi họ là thành viên của một nhóm người nào đó, như một gia đình, một cộng đồng dân cư, một tổ chức hay một nhóm sắc tộc hay dân tộc. Nói rộng ra, an ninh của một người có thể được bảo đảm khi người đó sống ở trong một quốc gia nhất định, bao gồm nhiều cộng đồng khác nhau hợp thành. Nếu một nhóm hay một cộng đồng nào đó được an toàn, thì khả năng mỗi thành viên trong cộng đồng cũng được an toàn là rất cao.
- An ninh chính trị: Bảo đảm tôn trọng các quyền cơ bản của con người khi họ sinh sống trong xã hội. Bảo đảm an ninh chính trị là bảo vệ con người không phải chịu sự đàn áp, ngược đãi, đe dọa hay xâm hại của các lực lượng thuộc quyền lực nhà nước, đặc biệt là công an và quân đội.
Như vậy, sự ra đời của khái niệm “an ninh con người” đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong nhận thức của nhiều quốc gia về khái niệm “an ninh”. Theo cách hiểu truyền thống, an ninh đồng nghĩa với an ninh quốc gia, trong đó quốc gia là chủ thể cần được bảo vệ về mặt an ninh. Theo cách hiểu mới, con người trở thành chủ thể chính của an ninh và cần được ưu tiên bảo vệ.
Từ khái nhiệm chung về “an ninh con người” nêu trên, lại có những cách hiểu cụ thể khác nhau và từ đó đến những chính sách và hành vi rất khác nhau. Trên thực tế, ở nhiều nước coi “an ninh con người” chính là đề cao con người, đề cao vai trò của nhân dân, nhân dân là người chủ thực sự của xã hội; thể chế xã hội và nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ đó có các chính sách về an ninh con người đúng đắn. Chính việc thực hiện tốt an ninh con người sẽ làm cho an ninh quốc gia được bảo đảm, đất nước phát triển bền vững. Bên cạnh đó, một số nước đặt con người vào vị trí tối thượng, hơn cả vị trí của quốc gia. Vì thế, họ lấy cớ vì an ninh con người, nhân danh an ninh con người, để tiến hành can dự quốc tế đối với quốc gia nào “có vấn đề” với con người. Đây thực chất là việc lợi dụng quan niệm “an ninh con người” để thực hiện quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới”, coi chủ quyền quốc gia không phải thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
2. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta; thực trạng bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam
2.1. Quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về an ninh con người
Trước Đại hội XII của Đảng, ở nước ta chưa xuất hiện khái niệm an ninh con người. Lần đầu tiên “an ninh con người” được xác định trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng. Trong phương hướng nhiệm vụ của quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, Đại hội XII xác định: “Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông; bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người”[2]. Tiếp cận theo 7 thành tố của an ninh con người của Liên hợp quốc, thì Việt Nam đã đề cập từ lâu, cả trong đường lối, chủ trương Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng ta xác định con người là mục tiêu, động lực của đổi mới và chủ thể sáng tạo của phát triển xã hội. Con người ở vị trí trọng tâm của chính sách phát triển. Nhận thức nhất quán và thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Đại hội XIII của Đảng (2021) vấn đề “an ninh con người” được chú trọng và đề cao. Vấn đề “an ninh con người” được đề cập trong nhiều nội dung của Văn kiện Đại hội XIII. Trong định hướng phát triển đất nước 10 năm 2021-2030, Đảng ta xác định: “Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, phân minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người”[3]. Nhiệm vụ, giải pháp phát triển giai đoạn đất nước 5 năm tới (2021-2025) xác định: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa”[4]. Trong tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII xác định “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người”[5]. Trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XIII có nhiệm vụ trọng tâm thứ tư về văn hóa, xã hội: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”[6],v.v..
2.2. Thực trạng về an ninh con người ở Việt Nam
(1) Về thành tựu:
- Về an ninh kinh tế: Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương bảo đảm mức thu nhập cơ bản của con người. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu tượng; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là cào bằng, đã từng bước thực hiện phân phối chủ yêu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời căn cứ theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5-2%/năm. Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1%, năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều còn 9,88%; đến năm 2020 còn dưới 3%. Thành tựu và giảm nghèo của Việt Nam đã được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công nhận, đánh giá cao.
Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm. Bộ Luật lao động được sửa đổi nhiều lần qua các năm (2002,2006,2007,2012) đã tạo ra hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động. Xây dựng và triển khai Luật việc làm, nghiên cứu xây dựng Chương trình làm việc công. Mỗi năm bình quân tạo ra khoảng 1,6 triệu việc làm mới. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi duy trì ở mức thấp và giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực thành thị giảm từ mức 3,37% năm 2015, xuống còn khoảng 3,1% năm 2019.
- Về an ninh lương thực: Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc bảo đảm an ninh lương thực. Từ chỗ nước ta phải đi nhập khẩu gạo, đến nay đã trở thành một những nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Đảng và Nhà nước ta đã giữ diện tích trồng lúa để bảo đảm an ninh lương thực. Vì lợi nhuận trồng lúa không cao, nên Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện chủ trương sử dụng linh hoạt đất trồng lúa, giảm diện tích trồng lúa để chuyển sang những cây, con khác có lợi nhuận cao hơn, nhưng vẫn bảo đảm an ninh lương thực. Một khi nơi nào đó khó khăn về tiếp cận nguồn lương thực, Đảng và Nhà nước đã quyết định cấp phát gạo cho dân với quyết tâm không đề người dân nào bị chết đói. Trong điều kiện rất khó khăn trước tác động của đại dịch Covid-19, Nhà nước có nhiều biện pháp hỗ trợ người dân, kể cả người dân giúp nhau (cây ATM gạo, livestream để bán vải thiều,...). Đây cũng là một ưu việt của chế độ ta.
- Về an ninh y tế: Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc bảo đảm sức khỏe cho mọi người dân. Điều 38, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. Nghiêm cấm các hành vi đe dọa cuộc sống, sức khỏe của người khác và cộng đồng. Hệ thống cơ sở y tế đã được hình thành trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một người dân tăng nhanh. Hệ thống dịch vụ y tế ngày càng được nâng cao chất lượng. Trong 10 năm gần đây, các quan điểm, chủ trương của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều luật liên quan đến lĩnh vực y tế, dân số. Trong lĩnh vực y tế, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tương đối toàn diện, coi trọng việc xây dựng thể chế, làm tốt công tác y tế dự phòng, bảo đảm an ninh y tế. Chất lượng dân số từng bước được cải thiện, tuổi thọ trung bình đến năm 2020 ước đạt 73,7 tuổi; tăng so với năm 2015 là 73,3 tuổi. Hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương và mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố và phát triển. Đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, từng bước giải quyết được tình trạng quá tải bệnh viện truyến trên và tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; phát triển và nhân rộng mô hình bác sĩ gia đình. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tiếp, từ xa. Công nghiệp được phát triển khá. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đến năm 2020 đạt 90,7%, tăng mạnh so với năm 2015 (76,5%) vượt mục tiêu đề ra (80%)[7].
- Về an ninh môi trường: Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về bảo vệ môi trường. Điều 43, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Trong những năm qua nhận thức về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được nâng lên. Các hoạt động trong lĩnh vực này đã thu được một số kết quả bước đầu quan trọng. Một số chỉ tiêu môi trường đạt và vượt kế hoạch. Tỷ lệ người dân đô thị được cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đến năm 2020 đạt khoảng 90%, tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nguồn nước ăn uống hợp vệ sinh ước đạt 90,2%, tăng mạnh so với năm 2015 (86,2%). Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường năm 2020 là 90%. Tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2020 đạt 42%[8]. Nhà nước và các cơ quan quản lý đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách quản lý và tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này. Đã thành lập được các cơ quan nghiên cứu và dự báo, quản lý rủi ro. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sẵn sàng phòng, chống thiên tai kịp thời, hiệu quả. Hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai được đẩy mạnh; đã tham gia nhiều tổ chức của thế giới về các lĩnh vực này.
- Về an ninh cá nhân: Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc bảo vệ các cá nhân trước các hành vi bạo lực. Khoản 1, Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta đã kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước đầu đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được tốc độ gia tăng tội phạm.
- Về an ninh cộng đồng: Đảng và Nhà nước ta chú ý bảo vệ an ninh cộng đồng nhằm bảo đảm an toàn cho mọi người.
- Về an ninh chính trị: Đảng và Nhà nước ta ngày càng nhận thức và thực hiện việc bảo vệ con người không phải chịu sự đàn áp, ngược đãi, đe dọa hay xâm hại của các lực lượng thuộc quyền lực nhà nước. An ninh chính trị gắn liền với sự bảo đảm tôn trọng các yếu tố cơ bản của con người. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung “quyền con người” vào tên chương so với Hiến pháp năm 1992 và chuyển từ Chương 5 thành Chương 2 sau Chương 1. Chế độ chính trị. Trong Chương này đã thêm nhiều điều quy định về quyền con người. Điều 14 quy định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Nhiều bộ luật, luật khác cũng có những quy định liên quan đến an ninh chính trị.
(2) Hạn chế, yếu kém:
Đại hội XIII chỉ rõ: Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng mức, chưa được kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế quản lý xã hội còn nhiều hạn chế; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn, tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột xã hội... ở một số nơi chậm được khắc phục, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu - nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội. Chất lượng dịch vụ y tế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, có mặt còn bất cập. Chính sách tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, phúc lợi xã hội có mặt còn hạn chế; thụ hưởng của người dân từ thành tựu phát triển của đất nước chưa hài hòa. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập[9]. Cụ thể như sau:
- Về an ninh kinh tế: Số người thiếu việc làm và việc làm không xác định còn nhiều. Chính sách tiền lương chậm được cải cách; tiền lương của đại bộ phận cán bộ công chức, viên chức, người lao động thấp, lương tối thiểu chưa đảm bảo đủ mức sống tối thiểu. Chất lượng việc làm còn thấp. Tỷ lệ người lao động làm các công việc không ổn định còn nhiều. Tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức còn cao, thiếu chế tài để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động ở khu vực này. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao.
- Về an ninh lương thực: Một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xã, vùng đặc biệt khó khăn, kể cả một bộ phận công nhân, việc tiếp cận nguồn lương thực cơ bản còn khó khăn, chưa bảo đảm chất dinh dưỡng cho một cuộc sống hiệu quả và khỏe mạnh. Chất lượng cuộc sống chưa cao.
- Về an ninh y tế: Chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các tuyến và giữa các vùng, miền. Kết cấu hạ tầng, trang thiết bị y tế một số nơi thiếu, chưa đạt tiêu chuẩn. Công tác y tế dự phòng yếu. Công tác quản lý thuốc chữa bệnh còn lỏng lẻo, nhất là tuyến cơ sở. Việc khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện còn chậm, nhất là tuyến cuối. Công tác y tế dự phòng có mặt còn bấp cập. Quản lý nhà nước về hoạt động y tế tư nhân, thuốc chữa bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém.
- Về an ninh môi trường: Tình trạng ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm trọng, nhất là tại một số làng nghề, lưu vực sông; xử lý vi phạm môi trường chưa nghiêm. Việc khắc phục hậu quả về ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại còn nhiều khó khăn. Chất lượng dự báo, nguồn lực và năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng ngập úng ở một số thành phố lớn và xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp.
- Về an ninh cá nhân: An ninh, trật tự và an toàn xã hội trên một số địa bàn còn phức tạp. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng còn nhiều diễn biến phức tạp. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng.
- Về an ninh cộng đồng: Con người cảm thấy không an toàn, luôn có cảm giác bất an.
- Về an ninh chính trị: Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rõ, mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp bảo đảm an ninh con người
3.1. Về định hướng bảo đảm an ninh con người trong 10 năm tới
Đại hội XIII xác định: Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường[10].
3.2. Về nhiệm vụ, giải pháp
Liên quan đến an ninh con người, Văn kiện Đại hội XIII đã nêu ra những nhiệm vụ, giải pháp sau:
- Về an ninh con người: Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa. Trên cơ sở dự báo đúng xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Gắn chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đổi mới cơ chế, huy động phân bổ và đa dạng hóa các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội phù hợp với nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp dân cư, nhóm xã hội, bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển, nhất là với lao động khu vực phi chính thức[11].
- Về an ninh lương thực: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; kết nối nông thôn với đô thị; tiếp tục đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới nâng cao, xây dựng đời sống văn hóa, nông thôn mới kiểu mẫu và bảo vệ môi trường sinh thái[12].
- Về an ninh y tế: Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Đổi mới cơ chế tài chính y tế, hệ thống quản lý và cung cấp dịch vụ y tế. Phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ y tế. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện, phát triển hình thức khám, chữa bệnh trực tuyến. Nâng cao năng lực, chủ động phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới toàn diện hệ thống y tế, nhất là y tế dự phòng. Thực hiện đúng hướng, hiệu quả xã hội hóa trong lĩnh vực y tế; bảo đảm bình đẳng giữa y tế nhà nước và y tế ngoài nhà nước; xây dựng, phát triển mô hình bác sĩ gia đình; phát triển mạnh ngành công nghiệp dược và thiết bị y tế. Thực hiện tốt “Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 -2030”. Phát triển thể dục, thể thao toàn dân để tăng cường sức khỏe của nhân dân, làm cơ sở cho phát triển thể dục, thể thao thành tích cao. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn giao thông, an toàn thực phẩm và thuốc chữa bệnh[13].
- Về an ninh môi trường: Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu; dự báo, cảnh báo thiên tai, ô nhiễm và thảm họa môi trường, dịch bệnh. Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân. Tập trung xử lý chất thải, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và sản xuất thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục. Huy động, ưu tiên các nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai; năng lực chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ, năng lực chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Chấn chỉnh công tác bảo vệ, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn gây ô nhiễm, nguồn phát thải khí nhà kính. Đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường, đẩy lùi tình trạng ô nhiễm, xâm hại môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học[14].
- Về an ninh cá nhân: Chú trọng an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân. Xác định “chủ động phòng ngừa” là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển[15].
- Về an ninh cộng đồng: Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa[16].
- Về an ninh chính trị: Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Một số đề xuất, kiến nghị
Một là, nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trước hết là các cấp ủy, chính quyền, nhất là cấp cao nhất và người đứng đầu về an ninh con người.
Như ở trên đã trình bày, khái niệm “an ninh con người” lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng (năm 2016), được tiếp tục khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII củ Đảng (2021) trong khi Liên hợp quốc lần đầu tiên ra khái niệm này từ năm 1994. Có nghĩa là, chúng ta chậm hơn so với thế giới hơn 20 năm. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao nhận thức về an ninh con người.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu về an ninh con người.
Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng chưa làm rõ khái niệm an ninh con người, chưa đề ra nhiệm vụ, giải pháp một cách rõ ràng, cụ thể, trực tiếp về an ninh con người. Do đó, cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu về an ninh con người ở Việt Nam.
Ba là, đưa vấn đề an ninh con người vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Việc đưa an ninh con người vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để các nhà hoạch định đường lối, chính sách có những biện pháp, chính sách phù hợp nhằm nâng cao việc bảo đảm an ninh con người, góp phần củng cố và bảo vệ an ninh quốc gia. Đồng thời, gửi đến cộng đồng quốc tế thông điệp tích cực của Việt Nam trên trường quốc tế và giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các viện trợ phát triển chính thức liên quan đến an ninh con người.
Bốn là, nghiên cứu xây dựng chiến lược quốc gia về an ninh con người.
Chiến lược quốc gia về an ninh con người đưa ra các quan điểm, định hướng nhiệm vụ, giải pháp bảo đảm an ninh con người Việt Nam, nhất là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh con người, tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật và giám sát quá trình thực thi pháp luật, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn an ninh con người ở Việt Nam.
Năm là, nghiên cứu thành lập cơ quan chuyên trách về an ninh con người.
Tăng cường bảo đảm an ninh con người, cần có một cơ quan quốc gia về quyền con người là cần thiết. Cơ quan này thuộc Quốc hội là hợp lý nhất.
Sáu là, nghiên cứu ban hành, sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm về bảo vệ an ninh con người, nhất là các luật sau: Luật tiền lương tối thiểu, Luật dân số, Luật bảo vệ, kiểm địch thực vật; Luật bảo đảm trật tự, an toàn xã hội,v.v../.
PGS.TS Nguyễn Viết Thông
Tài liệu tham khảo:
1. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Báo cáo phát triển con người, 1994 (NewYork: Oxford University Press, 1994, P.23).
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
---------------
[1] Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Báo cáo phát triển con người, 1994 (NewYork: Oxford University Press, 1994), P. 23.[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2016, tr. 135.
3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 116.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 147.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 148.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 202.
[7] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 45,48.
[8] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 51.
[9] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Sđd, tr. 85-86.
[10] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Sđd, tr. 116-117.
[11] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Sđd, tr. 147-148.
[12] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Sđd, tr. 124-125.
[13] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Sđd, tr. 151-152.
[14] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Sđd, tr. 154-155.
[15] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Sđd, tr. 156-157.
[16] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Sđd, tr. 172-173.
Nguồn: http://hdll.vn/
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn